CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN C
KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Sống đức tin không chỉ là tuân giữ một số điều luật, nhưng là một sự chọn lựa mang tính quyết định cho vận mệnh cuộc đời chúng ta. Hôm nay, khi cử hành Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta tưởng nhớ các bậc tiền nhân, những con người đã tin và chọn Đức Giêsu Kitô làm nguồn sống, và đã trung thành đến cùng trong đức tin, cho dù phải hiến dâng cả mạng sống. Những giọt máu của các ngài không chỉ là dấu ấn bi thương của lịch sử, nhưng còn là hạt giống sinh ra các Kitô hữu, là lời chứng mạnh mẽ cho tình yêu và chân lý, sự trung thành và tha thứ.
Cho đến hôm nay, cái chết vì đức tin của cha ông chúng ta vẫn còn vang vọng như kết quả của một cuộc tranh luận giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự thật và giả dối; nói cách khác, đó là cuộc tranh luận giữa những người chọn đức tin và những người khước từ đức tin. Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay soi sáng cho chúng ta hiểu hơn về giá trị của cái chết trong niềm tin vào Thiên Chúa. Điều mà thế gian coi là ngu dại, là điên rồ, là thiếu khôn ngoan, lại chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời. Người mẹ trong sách 2 Macabê, đã khẳng định niềm tin vào quyền năng sáng tạo và ơn cứu độ của Thiên Chúa: “Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào, nhưng Đấng dựng nên vạn vật sẽ trả lại hơi thở và sự sống cho các con” (2Mcb 7,22–23). Cũng trong cùng chiều hướng ấy, thánh Phêrô mời gọi cộng đoàn tín hữu đang chịu bách hại hãy nhận ra giá trị cứu độ qua đau khổ: “Anh em được thông phần vào những đau khổ của Đức Kitô, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4,13).
Niềm tin và sự trung thành ấy đã được Các Thánh Tử Đạo Việt Nam sống một cách triệt để. Các ngài đã không coi cái chết vì đức tin là một thất bại, nhưng là vinh dự vì được đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô. Các ngài biết rất rõ những cái giá cho sự chọn lựa của mình, vì danh Đức Giêsu, các ngài sẽ bị mọi người ta thù ghét (Mt 10,12). Nhưng các ngài cũng hiểu được sự sống đời này chỉ là một cuộc sống thế tạm, vì khi cuộc sống đời này qua đi thì các ngài có một nơi vĩnh viễn trên trời. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu đã khẳng định trong Tin Mừng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).
Dù phải chịu những hình phạt đến ghê rợn như: Bá Đao, lý hình đã dùng dao cắt xẻ từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng thị; Lăng Trì, bị chặt tay, chặt chân trước khi bị chém đầu; Thiêu Sinh, trong tư thế trói lại và thiêu sống; Xử Trảm, tức là chém đầu. Xử Giảo, bị tròng dây vào cổ rồi kéo dây ra hai bên cho đến chết. Giam cho đến chết rũ tù, bị hành hạ đủ điều, bị bỏ đói cho đến chết vì kiệt sức… thế nhưng, cha ông của chúng ta vẫn tuyệt đối trung thành với đức tin vào Thiên Chúa. Các ngài còn cảm thấy hãnh diện khi phải chịu đau khổ vì Chúa. Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh đã viết: “Tôi vui mừng và tạ ơn Chúa vì đã cho tôi chịu khổ vì danh Người.” Đặc biệt là bà thánh Annê Lê Thị Thành, người phụ nữ duy nhất trong số 117 vị đã được tôn phong hiển thánh. Khi cô con gái là Lucia Nụ đến thăm, thấy y phục của thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an đã ủi con bằng những lời hết sức lạc quan: “Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?” Bà còn khuyên: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng.” Cuối cùng bà chết rũ tù ngày 12-07-1844.
Chúng ta tự hào về các bậc tiền nhân của chúng ta, các ngài không phải là những người xa lạ nhưng các ngài đã sinh ra chúng ta. Khác với những người điên điên khùng khùng hay hâm hâm dở dở, những người không biết sợ là gì. Không! các thánh tử đạo là những người cũng biết sợ, sợ đau đớn, sợ con cái mình bị khổ cực, sợ mất gia đình… nhưng đức tin là một động lực giúp các ngài chiến thắng mọi cực hình. Các ngài đã sống kết hiệp với Đức Giêsu Kitô đến mức có thể nói như thánh Phaolô: “Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô” (Rm 8,35).
Tới đây ta có thể trả lời cho một câu hỏi mang tính nền tảng: đâu là nét độc đáo làm nên sự khác biệt giữa cái chết của một vị thánh tử đạo và cái chết của một người bị đem ra ngoài pháp trường để xử tử? Đã hẳn, trong lịch sử nhân loại có nhiều người dám hy sinh mạng sống vì lý tưởng, vì danh dự, vì tổ quốc hay cho niềm tin chính trị hoặc là cho một chủ thuyết riêng biệt nào đó. Cái chết của họ, dù cao quý, song vẫn thuộc về trật tự nhân loại, được thúc đẩy bởi khát vọng công lý, tự do hoặc danh dự. Trái lại, cái chết của vị thánh tử đạo vượt lên trên bình diện trần thế, vì phát xuất từ đức tin và tình yêu đối với Đức Kitô. Các ngài không coi cái chết là thất bại, nhưng là một hành vi tự hiến, kết hợp với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu. Trong khi người đời có thể chết trong phẫn uất hay oán hờn, thì người tử đạo chết trong bình an, tha thứ và hy vọng, bởi họ tin rằng sự sống thật không bị hủy diệt, nhưng được hoàn tất trong Đức Kitô Phục Sinh. Như vậy, chính động lực và ý hướng của cái chết làm nên bản chất của chứng tá tử đạo, chứ không phải tự thân cái chết.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Thời nào cũng có tử đạo, vì thời nào cũng có đức tin cần được minh chứng.” Ngày nay tử đạo không nhất thiết đổ máu, nhưng vẫn đòi một cái chết nội tâm, chết cho tính ích kỷ, danh vọng, và cho những thoả hiệp với sự dữ, để sống cho tình yêu. Là con cháu của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta được mời gọi sống tinh thần tử đạo như các ngài, tinh thần ấy là sự nối kết của hai đặc tính là sự trung thành và tha thứ. Trung thành và tha thứ là công thức gìn giữ cho gia đình của chúng ta được hạnh phúc. Điều này đang thật sự rất cần thiết khi thực trạng nhiều gia đình Công giáo hôm nay đang rạn nứt, và không ít đã tan vỡ vì vợ chồng không còn trung thành với lời cam kết của Bí tích Hôn nhân và thiếu đi sự cảm thông tha thứ. Chúng ta đang phải chứng kiến những cuộc hôn nhân theo kiểu: chuyện đời vợ vợ chồng chồng, thương nhau cũng vội mà dứt lòng cũng mau. Chúng ta đang đi lời dạy của người xưa: Đạo vợ chồng thì phái xét cho xa, anh Vân Tiên mù mắt thì chị Nguyệt Nga vẫn chờ. Để làm được điều đó mỗi người chúng ta cần phải sống tinh thần tử đạo như cha ông chúng ta trong từng ngày sống.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo giáo huấn của Tin Mừng, can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày như cha ông của chúng con xưa. Amen.
Lm. Joseph Nguyễn Kế


